Một trong những biểu
hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của
Đảng đã chỉ ra, đó là: “Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm,
thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ,
lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động
cơ cá nhân không trong sáng”.
Tranh minh họa/tuyengiao.vn
Vấn đề này cần được khắc phục để tự phê bình và phê bình ngày càng
trở thành liều thuốc hiệu quả trong công tác xây dựng Đảng.
* Từ lời dạy của Bác Hồ
Trong chuyên mục Thường thức chính trị trên Báo Cứu
quốc, từ ngày 16-1 đến 23-9-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Để
làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình),
thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”.
Mục đích của tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
Với tổ chức, “cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt để đoàn
kết và thống nhất nội bộ”; “để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
trong Đảng”. Nếu đoàn kết làm nên sức mạnh của Đảng thì tự phê bình và phê bình
được coi là cội nguồn sức mạnh bậc nhất của Đảng. Với các đảng viên, “một mặt
là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau”; “là
cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm”.
Phê bình như thế nào? Mục đích đã đúng thì phải có một tinh thần,
thái độ, cách thức thực hiện phù hợp. Đây chính là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất quan tâm. Người căn dặn: “Vì vậy phê bình mình cũng như phê bình người khác
ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu
điểm và khuyết điểm. Đồng thời chớ dùng những lời mỉa mai chua cay, đâm thọc.
Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì
phải vui lòng nhận xét để sửa đổi không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán
ghét”.
Để phê bình có hiệu quả, theo Người, phải phê bình toàn diện, đa
chiều; do đó, trong bài Thuốc đắng dã tật nói thật mất lòng, Người
nhấn mạnh: “Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên phê bình,
chưa đủ. Đồng chí, đồng sự phê bình, chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê
bình nữa, thì sự phê bình mới hoàn toàn”. Người cũng căn dặn: Phải kết hợp giữa
phê bình và tự phê bình; phải thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi
với làm, đúng nguyên tắc và nêu gương trước cấp dưới, trước quần chúng.
Tự phê bình và phê bình là phương pháp để giáo
dục, rèn luyện đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Chúng ta vì dân, vì
nước mà làm cách mạng. Muốn cách mạng thành công, ắt phải đoàn kết và tiến
bộ. Muốn đoàn kết càng chặt chẽ, tiến bộ càng mau chóng, thì mọi người phải
sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Mà muốn được như thế thì không có
cách gì hơn là thật thà tự phê bình và phê bình. Mục đích phê bình là cốt lợi
cho công việc chung”.
|
Đặc biệt, phê bình phải trên tình đồng chí thương yêu nhau. Đây là
điều căn cốt nhất và phương thức hiệu quả nhất khi thực hành phê bình.
Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng
rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí
thương yêu nhau”.
Phải dân chủ trong phê bình và tôn trọng đối tượng được phê bình.
Ngày 30-5-1957, khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên và thanh niên Hải Phòng,
Người ân cần nói: “Phê bình phải dân chủ, nghĩa là Bác phê bình các cô, các
chú, trái lại các cô, các chú có thể phê bình Bác, có cái hay phải học, cái
khuyết điểm thì phê bình. Các cô, các chú yêu Bác, muốn Bác tiến bộ thì phải
phê bình”.
* Những bất cập đáng lo ngại
Trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, Đảng ta một lần nữa yêu
cầu: Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt tự
phê bình và phê bình. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình
trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu
tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề
phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tự phê
bình và phê bình trong Đảng nói chung, đối với cán bộ, đảng viên của Đảng nói
riêng đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và hiệu quả, nhất là từ khi
có Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đến nay. Tuy nhiên, vấn đề này hiện nay vẫn
tồn tại những bất cập đó là:
Thứ nhất, tự phê bình thì mạnh dạn nhưng phê bình còn e dè, nể
nang. Đây là một trong những bất cập khá phổ biến trong sinh hoạt và hoạt động
thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay. Không ít cán bộ, đảng viên
còn biểu hiện “dĩ hòa vi quý”, e dè, nể nang, ngại va chạm nhất là khi phê bình
cấp trên.
Thứ hai, lợi dụng phê bình để hạ thấp uy tín người khác. Vì mục đích vụ
lợi, không ít cán bộ, đảng viên lợi dụng việc phát huy dân chủ, đề cao phê bình
để công khai nói xấu, công kích để hạ thấp uy tín của người được phê bình hoặc
lợi dụng phê bình để tranh cãi, gây mất đoàn kết hoặc khuyết điểm chưa rõ thì
tìm cách che giấu… Bên cạnh đó, thái độ trông trước ngó sau, đón ý cấp trên để
phê bình cho “trúng” hoặc xem người khác nói gì rồi hùa theo. Một tình trạng
nữa là có những người lợi dụng phê bình làm công cụ để hạ bệ người không cùng
phe cánh. Phê bình không khách quan, không kịp thời nhắc nhở đồng chí, đồng
nghiệp mà “tích lũy khuyết điểm” của người khác để kết tội. Với “chiếc áo” phê
bình, họ kéo bè, kéo cánh để công kích những người không ưa, gây mất đoàn kết
nội bộ, làm rối loạn cơ quan, đơn vị...
Thứ ba, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng
viên còn hạn chế, chưa nêu cao tính xây dựng, tính chiến đấu của người cán bộ,
đảng viên. Tâm lý “thứ nhất ngồi lỳ, thứ nhì đồng ý” hay “thấy đúng không bảo
vệ, thấy sai không lên án” hoặc “gió chiều nào theo chiều ấy” để tạo cảm giác
“an toàn” cho mình khiến một số cán bộ, đảng viên ngại phát biểu ý kiến trong
sinh hoạt Đảng, nếu phát biểu cũng phê bình chung chung, chiếu lệ, né tránh
những vấn đề nhạy cảm, gai góc.
Thứ tư, người được phê bình thường có biểu hiện không thừa nhận
khuyết điểm, thái độ cầu thị không tốt, thậm chí tiếp nhận các ý kiến phê bình
của người khác một cách cực đoan; từ đó, cán bộ, đảng viên là cấp trên tìm cách
để ý, trù dập những người phê bình mình là cấp dưới.
Vì vậy, một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị
mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra đó là: “Trong phê bình
thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ
trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng”.
Còn tồn tại những bất cập có cả nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trong đó nguyên nhân cơ bản là do tư tưởng “ngại va chạm”, tính chủ động,
tinh thần trách nhiệm, tinh thần tự phê bình và phê bình của một số cán bộ,
đảng viên chưa cao. Nguyên nhân chính là do cán bộ, đảng viên còn bị chủ nghĩa
cá nhân chi phối, toan tính lợi ích cá nhân, chưa vì lợi ích tập thể và lợi ích
lâu dài. Nguyên nhân sâu xa còn do cán bộ, đảng viên chưa có văn hóa phê bình.
Vì vậy, trong nhiều “vụ án ngàn tỷ” thời gian gần đây, có những người vi phạm
rất nghiêm trọng, làm thất thoát tài sản lớn của Nhà nước, nhưng khi bị cơ quan
pháp luật xét xử cũng chỉ nhận khuyết điểm là do hạn chế về nhận thức.
* Phê bình chân chính và có văn hóa
Thực hiện thường xuyên tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại
và phát triển của Đảng. Cấp ủy, các tổ chức Đảng cần quyết liệt thực hiện tự
phê bình và phê bình theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII. Khắc
phục tình trạng nể nang, dĩ hòa vi quý, đoàn kết xuôi chiều, bị tình cảm cá
nhân chi phối; đồng thời, nghiêm khắc xử lý những biểu hiện lợi dụng phê bình
để đấu đá, làm mất uy tín của nhau, gây rối đối với tổ chức, ảnh hưởng đến đoàn
kết trong tổ chức Đảng, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng kích động, chia rẽ.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải phê bình một cách thẳng thắn, chân
thành nhằm giúp đồng chí, đồng đội nhận rõ sai lầm, sửa chữa khuyết điểm để
không ngừng tiến bộ, tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà
phê bình theo kiểu “vạch lá tìm sâu” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Do
đó, các tổ chức Đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình, phải nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang,
né tránh. Mỗi cán bộ, đảng viên kiểm điểm phải bảo đảm tính trung thực trong tự
kiểm điểm, người phê bình thì công khai dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với
tinh thần xây dựng và cán bộ cấp trên phải làm gương cho cấp dưới. Đồng thời,
phải kiên quyết xử lý kỷ luật những tổ chức Đảng và cá nhân không thực hiện
nghiêm túc chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình, không tự nhận sai lầm,
khuyết điểm và che giấu những hạn chế, khuyết điểm cho nhau. Việc góp ý cho
nhau, cùng nhau tiến bộ, nâng cao phẩm chất con người, phát huy tính tích cực
của con người; cần nhận thức sâu sắc hơn, thực hiện triệt để hơn nguyên tắc tự
phê bình và phê bình để Đảng luôn trong sạch, làm cho uy tín, năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao.
Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí
mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa
chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực tự phê bình và phê bình. Đảng
ta yêu cầu mọi tổ chức Đảng và mọi đảng viên đều phải thực hiện tốt tự phê bình
và phê bình. Theo đó, phê bình không phải là sỉ vả, xúc phạm danh dự của nhau
mà là sự thể hiện tình cảm đồng chí trong sáng, chân thành; phê bình là để giúp
nhau sửa chữa khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ và để đoàn kết tốt hơn; phê bình
phải mang tính khách quan, vô tư, có lý, có tình, cổ vũ ưu điểm, khắc phục
khuyết điểm; phê bình phải trên nguyên tắc tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ
phải, chống thổi phồng hoặc bóp méo sự thật; phải biết phân tích ưu điểm,
khuyết điểm của đồng chí mình theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ
thể... Chỉ có phê bình như thế mới là phê bình chân chính và mới có tác dụng;
nói cách khác là phê bình có văn hóa.
Nguồn: Báo Đồng Nai